Bản văn Cô Bơ thoải phủ

Bản văn Cô Bơ 1

Nhang thơm một triện, trống điểm ba hồi

Đệ tử con, dâng bản văn mời

Dẫn sự tích thoải cung công chúa

Tiền duyên sinh ở: thượng giới tiên cung

Biến hóa lên về Động Đình trung

Thác sinh xuống, con vua thoải tộc

Điềm trời giáng phúc, thoang thoảng đưa hương

Mãn nguyệt liền, hoa nở phi phương

Da tựa tuyết ánh hường tươi tốt

Hoa cười ngọc thốt, nét ngọc đoan trang

Áo trắng hoa, chỉnh triện dung nhan

Tươi vẻ ngọc diện càng tươi sáng

Tóc mây hương thoảng, da trắng lạ lùng

Điểm yên chi, má đỏ hồng hồng

Đôi mắt phượng lóng la lóng lánh

Tai đeo vàng cánh chân dận hài hoa

Điệu lưng ong dáng ngọc thướt tha

Chuỗi tràng mạng kim sa đài các

Mỗi ngày một khác, vẻ đẹp quá ưa

Áo bạch bào phơn phớt hương đưa

Chiếc lồng cổ hây hây xạ nức

Động lòng quân tử trạnh dạ văn nhân

Nói về tài cô tài vẹn mười phân

Nói về sắc mười phần nhan sắc

Áo hoa quần trắng, tóc phượng lưng ong

Chỉnh chiện thay nhan sắc não nùng

Vịnh thơ phú ngân nga đàn hát

Phấn nhồi má hạc, sáp điểm mày ngài

Cô mặc áo màu phơn phớt lòng trai

Hài mỏ phượng khoan thai chân bước

Đàn cầm thánh thót dạo khúc năm cung

Văng vẳng nghe tiếng nhạc lạ lùng

Điểm đót nhẹ giục lòng quân tử

Ba ngàn tiên nữ trăm ả theo hầu

Người vui mừng sắm sửa trầu cau

Kẻ hầu hạ nâng khăn sửa túi

Éo le cô nhiều lỗi cách điệu trăm phần

Người thanh tân nết cũng thanh tân

Người lịch sự thêm càng lịch sự

Hằng Nga tiên tử cung quế Quảng Hàn

Vấn khăn chầu áo ngự điểm trang

Lược ngà chải, gương loan điểm đót

Khăn hồng chau chuốt chuỗi ngọc lưu ly

Vẻ thướt tha tính nết nhu mỳ

So mọi vẻ cầm kỳ thi họa

Truyền chim nhắn cá trăm sự đinh ninh

Gẩy đàn ca tang tính tang tình

Tiếng thánh thót giọng loan to nhỏ

Phỉ lòng trăng gió hội ngộ bạn tiên

Chốn Ba Bông cảnh sắc thiên nhiên

Non nọ nước ấy miền sơn thuỷ

Ấy mong tri kỷ gió lạnh sương rơi

Khen trăng già sao khéo trêu ngươi

Tiên thượng giới, bạn người hạ giới

Hoa đào còn đợi, sao thấy gió đông

Đợi rồi mong nào đã phỉ lòng

Riêng chỉ đẻ tấc lòng bối rối

Gió trăng đã trải quý tộc thiết tha

Bỗng hay đâu non nước la đà

Cánh chim nhạn cao xa bay bổng.

Bản văn 2: Văn Cô Bơ thoải cung thần phù chữa bệnh

Thần phù chỉ núi núi tan

Chỉ sông sông cạn chỉ ngàn ngàn bay

Thần phù gọi gió thét mây

Ấn thiêng quyết lĩnh ra tay khảo trừ

Thần phù tay ấn có dư

Lĩnh của Phật tổ đem về giúp dân

Nước thời lấy ở Sông Ngân

Đem về mà uống sạch không thay là

Có tà cô trục tà ra

Một là khí huyết hai là tà tinh

Trừ yêu yêu hiện nguyên hình

Tàn nhang nước thải cứu sinh cho đồng

Cô thời hóa phép thần thông

Tiếp lộc cho đồng cứu trợ bệnh nhân

Chữ rằng thánh giáng lưu ân

Thánh cô lưu phúc thiên xuân thọ trường.

Bản văn 3

Hàn Sơn tụ khí chung linh

Có Cô Ba Thoải giáng sinh phù đời.

Hỡi ai đi ngược về xuôi,

Sông bao nhiêu nước ơn người bấy nhiêu.

Nhớ xưa tích cũ Lê triều,

Có cô Ba Thoải mĩ miều thanh xuân.

Khăng khăng lắm vững cơ trần,

Phò Lê diệt Mạc, bao lần xông pha

Ba Bông chốn ấy quê nhà

Vì đời vững lái vượt qua thác ghềnh.

Thuyền nan rẽ sóng xung xinh,

Đón người vì nước vì tình non sông.

Hàn Sơn, Phong Mục, Ba Bông,

Ấy nơi đón khách thoát dòng gian nguy

qua cơn binh lửa bất kỳ,

Ngọc chìm đáy nưóc cô về thuỷ cung

Hoa đào còn đợi gió đông,

Xót người thục nữ, khăn hồng chưa trao.

Vẻ thanh giá ngọc càng cao,

Biết đâu quân tử mà trao duyên hài.

Nương dâu một phút biến giời

Bụi trần rũ sạch ra người cung tiên

Thuyền bè xuôi ngược các miền

Nhớ ơn công đức lập đền khói nhang

Lê triều sắc tặng ra ban

Anh hùng nghiêu nữ trung can muôn đời

Dẫu rằng nước chảy hoa trôi

Sông kia dù cạn ơn người còn ghi

Đêm thanh hiện giữa Thác Hàn

Tay tiên cô gảy cung đàn nam thương

Độ người cách trở viễn phương

Bắc cầu Chức Nữ, Ngưu lang đợi chờ

Thuận dòng lá thắm đề thơ

Kẻ mong trực tiếp người chờ có khi

Ba Bông biến hiện đi về

Trăng thanh gió mát canh khuya bán hàng

Nào là kẻ Bắc người Nam

Cầu sao được vậy về đền Ba Bông

Hài cườm nón trắng tiến dâng

Tôn nhang phụng sự dốc lòng không sai

Biết ra ban lộc tiếp tài

Buôn may bán đắt gặp người gặp duyên

Ai mà bất chứng đảo điên

Nắm bạc nhiều tiền cũng đổ ra sông

Thương ai chấm lính nhận đồng

Hiếu trung trọn vẹn tam tòng đảm đang

Thưong ai núi ngọc non vàng.

Giận ai cô để nhỡ nhàng bể khơi

Giận thời uống nước cầm hơi

Khi mê khi tỉnh khi chơi khi cười

Bệnh làm tựa thể giếng khơi

Mênh mông lai láng biết trời phưong nao

Dò sông sông chẳng đủ sào

dò bể bể rộng trời cao mấy tầng

Xem ra mới biết Sự lòng

Tìm về Thoải phủ Ba Bông, Thác Hàn

Kim ngân, sớ điệp lập đàn

Dâng văn kiều thỉnh Thác Hàn Ba Bông

Thuyền rồng nón trắng tiến dâng

Khăn điều áo thắm tiền trăm, trầu trình

Hình nhân lốt trắng xinh xinh

Cứu cho lại được yên lành như chơi

Canh ba biến hiện ra người

Chiếc thoi bán nguyệt chèo chơi giữa dòng

Thác hàn tới ngã Ba Bông

thuận buồm xuôi gió thong dong đi về

Bầu trăng túi gió đè huề

Khi chơi Phố Cát lúc về Đền Dâu

Dù ai buôn bán đâu đâu

Mười hai tháng sáu rủ nhau mà về

Dù ai buôn bán trăm nghề

Mười hai tháng sáu thì về Ba Bông

hài cườm nón trắng tiến dâng

Lâm râm khấn nguyện chứng tâm lòng thành

Cô bơ công chúa hách danh

Mười hai cửa bể quyền hành trong tay

Thủy Cung hội yến đêm ngày

Có lệnh mẫu gọi cô về ngay Thác Hàn.

Bản văn 4

Bốn phương bể lặng sông trong

Thảnh thơi lầu ngọc vua phong ấn vàng

Mẫu đương ngự long sàng giấc điệp

Phút mộng thần bỗng thấy chiêm bao

Hạt châu dâng trước ngai vàng

Rằng vâng sắc chỉ cô Bơ nàng giáng sinh

Thượng tuần đỉnh tháng hai mồng tám

Bỗng trên trời nổi áng mây xanh

(Trung tuần đỉnh mười hai tháng sáu

Bỗng trên trời nổi dấu mây xanh)

Thuỷ cung nhã nhạc tập tành

Rõ ràng cô Bơ Thoải giáng sinh phàm trần

Mẫu trông thấy mười phần nhan sắc

Quả như là trong giấc chiêm bao

Phấn son tô điểm má đào

Anh hùng tài tử lối vào cung tiên

Dẫu lá ngọc mình vàng chẳng quý

Mượn non nhân nước trí làm vui

Canh ba biến hiện lên người

Chiếc thoi bán nguyệt chèo bơi giữa dòng

Thác Hàn tới ngã Ba bông

Thuận buồm xuôi gió thong dong đi về

Bầu trăng túi gió đè huề

Khi chơi Phố Cát lúc về Đền Dâu

Dù ai buôn bán đâu đâu

Mười hai tháng sáu rủ nhau mà về

Dù ai buôn bán trăm nghề

Mười hai tháng sáu thì về Ba Bông

hài cừom nón trắng tiến dâng

Lâm râm khấn nguyện chứng tâm lòng thành

Cô bơ công chúa hách danh

Mừoi hai cửa bể quyền hành trong tay

Thủy Cung hội yến đêm ngày

có lệnh mẫu gọi cô về ngay Thác Hàn

Bản văn 5

Trời Nam Hải mây lồng năm sắc,

Cõi Bắc Sơn vằng vặc trăng sao.

Bốn mùa hoa nở Đông Đào,

Có cô Bơ Thoải tiền triều hiển linh.

Tóc mườn mượt rung rinh bóng liễu,

Thẳng đường ngôi, thẳng chiếu trần gian.

Cong cong nét liễu nằm ngang,

Long lanh mắt phượng lồng gương đôi hình.

Vẻ xinh xinh da ngà điểm tuyết,

Má hồng hồng vẻ nguyệt tô son .

Thanh xuân đương độ trăng tròn,

Mày ngang bán nguyệt dương đình nở hoa.

Áo mớ ba chân hài mỏ phương,

Lưọc đồi mồi, nhẫn nhọc luồn tay.

Gương soi phấn điểm ai tày,

Cổ đeo chàng hạt, đôi tai hoãn vàng.

Vẻ dịu dàng,càng thêm linh hiển,

Cô về đồng, phán chuyện xa xôi.

Vân du góc biển, chân trời

Thông mây cưỡi gió cứu người trần gian

Đêm đêm ngồi tựa hiên loan

Tay tiên cô gảy cung đàn nam thương

Độ người cách trở viễn phương

Bắc cầu Chức Nữ Ngưu Lang đợi chờ

Thuận dòng là thắm đề thơ

Kẻ mong trực tuyết người chờ cung phi

Thiên đình định nhật chí kỳ

Xe loan đón rước cô về Thủy cung

Hoa đào còn đợi gió đông

Đợi người quân tử tơ hồng cô trao

Vẻ thanh giá ngọc càng cao

Biết đâu quân tử mà trao duyên hài

Nhớ lời mẫu gọi cô lên

Một phen gắn bó hai phen hẹn hò

Dạy cô điều nhỏ tiếng to

Hương thơm ngat ngắt thơm tho lạ lùng

Cô thương lấy ghế cô cùng

Bể sầu chưa cạn thủy cung chưa về

Cô vân ảm đạm chiều hè

Muôn dân thành thị thôn quê ơn người

Ai hùng nữ kiệt ai ơi

Uy linh quét sạch bầu trời sáng trong

Chấm đồng cô lại thương đồng

Lỡ nào cô để cho đồng hàn vi

Không thương ắt cũng nên vì

Lẽ nào cô lại chấp chi lạng vàng

(Xin cho đệ tử có khi lạng vàng)

Có công phật thánh gia ban

Mượn cầu ô thước bắc đường sông Ngân

Thương ai xa mấy cũng gần

Giận ai cách nửa bản chân cũng lìa

Đèn dầu thắp ngọn đèn khuya

Canh ba giờ tý cô về bảo ngay

Tham sân tam nghiệp đọa đày

Gian tham xảo trá tháng ngày nhuộm nhơ

Trần gian có biết bao giờ

Mê mê sảng sảng trói vò chân tay

Chiêm bao mộng hiện đêm ngày

Báo cho mà biết cô rày không tha

Phải mau sám hối Bơ tòa

Kim ngân sớ điệp lẵng hoa ba mầu

Muốn sang thời phải bắc cầu

Muốn ăn quả ngọt bảo nhau vun trồng

Cô về thưởng lộc ban công

khuông phù đệ tử hanh thông đời đời

Nhất tâm tin tưởng phật trời

Cao xanh đâu lỡ phụ người nhất tâm

Chữ rằng phật giáng lưu ân

Thần giáng lưu phúc thiên xuân thọ trường

Bản văn 6

Dưới Động Đình hoa rơi lai láng

Cửa rèm châu thấp thoáng bóng trăng

Đời Lê Thái Tổ trung hưng

Anh linh ra sức Liễu Thăng hàng đầu

Lệnh khoa màu theo quan sứ giả

Chọn ngày lành giáng hạ thần tôn

Ra vào ngọc điện kim môn

Danh thơm ngoài cõi tiếng đồn trong cung

Đức Mẫu Vương có lòng quảng đại

Phong cô làm công chúa thoải cung

Ngọt ngào nổi dấu thiên hương

Phấn son chải chuốt áo vàng trai lơ

Bậc thần nữ phong cô nhan sắc

Vẻ khuynh thành nhất mực trần gian

Hây hây má phấn tựa hương

Mặt hoa đầy đặn trán vuông chữ điền

Vẻ thiên nhiên hình dung tầm thước

Gót hài hoa càng bước càng xinh

Đã nên quốc sắc khuynh thành

Mày ngang bán nguyệt rành rành tựa hoa

Áo mớ ba chân hài mỏ phượng

Lược đồi mồi nhẫn ngọc luồn tay

Gương soi phấn điểm nào tày

Cổ đeo chàng mạng đôi tai hoãn vàng

Nét dịu dàng lại càng vinh hiển

Giá ngự đồng phán chuyện xa xôi

Thông chi dưới bể trên trời

Lầu son phủ tía cô ngồi thảnh thơi

Lúc nhàn hạ lên chơi tỉnh Bắc

Kén được đồng nhan sắc nết na

Thiên triều bồng báo trải qua

Quỳnh Lôi thẳng tới Thổ Hà Vạn Vân

Trải phủ Thuận qua đền Dâu Khám

Tới đền Ghềnh xuống trạm Hoàng Mai

Có phen đi hán đi hài

Qua đền Cổ Vũ Hàng Gai Hàng Bè

Trở ra về Hàng Buồm Phố Khách

Gặp Minh hồng khúc khích cười reo

Rong chơi Cầu Gỗ Hàng Đào

Trở về Hàng Bạc lại vào Phúc Tân

Tháng hai hội đền Dầm đền Sở

Ninh xá từ Đại Lộ đức Ông

Nhởn nhơ đứng mũi thuyền rồng

Khuyên luyện thanh đồng chầu chực dâng hoa

Lại trở ra cô về đền Sét

Xuống Bạch Mai bái yết chùa Vua

Dạo chơi Trưng Trắc Hai bà

Đức Viên Hoà Mã ,lại ra Tây Hồ

Có phen dạo khắp thành đô

Qua phủ Tây Hồ về tới Chân Tiên

Mời Cô trắc giáng bản đền

Phù hộ đệ tử thiên niên thọ trường

Bản văn Cô Bơ chèo đò

Thuyền lan rước Mẫu qua sông

Độ muôn dân trăm họ thoát vòng gian nan

Nổi tiếng hò khoan (khoan khoan dô khoan)

Chân bước xuống thuyền) (khoan khoan hò khoan)

Chèo mở lái ra (khoan khoan dô khoan)

Hàn Thác chèo ra

Về Phủ Giáp Ba

Chèo về đền chính

Chèo ra Công Đồng

Chèo về Phủ Bóng

Cho tới đền Gôi

Tới nơi đền Lộ

Đền Dầm,đền Sở

Tới Ninh Xá từ

Đại lộ Đức Ông

Cô Bơ vui chơi

Đứng mũi thuyền rồng

Yêu mến thanh đồng

Lễ vật dâng hoa

Cô lại chèo ra

Về đền Cây Quế

Qua cửa Xích Đằng

Về đền Lảnh Giang

Bái yết Quan Đệ Tam

Rồi ngược dòng sông

Tới chùa Bồ Đề

Ghé qua đền Ghềnh

Chầu đức Mẫu Thoải

Lại đến đền Chầu

Chầu Đệ Tứ Khâm Sai

Qua cửa đền Rừng

Đền Rừng,đền Núi

Qua đền Cửa Sông

Yên Định,Thái Mỗ

Chèo về đền đây

Tới phủ tới đền

Đền xinh cảnh lịch

Bốn mùa phong quang

Thuyền rằng thuyền ai

Lơ lửng bên giang

Thuyền Cô Bơ Thoải

Rước Mẫu sang đền này

Tới bến cô ơi

Xin cô gác mái chèo bơi cô lên đền.

Trên đây là tất cả các bản hát văn của Cô Bơ Thoải Cung hy vọng sẽ giúp các bạn chiêm nghiệm được những thần tích Cô Bơ Bông qua các lời văn. 

Bài viết liên quan

Trong tín ngưỡng thờ Mẫu, Cô Đôi Thượng Ngàn là vị thánh cô rất nổi tiếng trong hệ thống Tứ Phủ Thánh Cô.

Bản văn Cô Bơ 1

Nhang thơm một triện, trống điểm ba hồi

Đệ tử con, dâng bản văn mời

Dẫn sự tích thoải cung công chúa

Tiền duyên sinh ở: thượng giới tiên cung

Cô Bơ Thoải hay còn gọi là Cô Bơ Bông (Cô Ba Thoải Cung) Cô là Vị Thánh Cô thứ ba trong hàng Tứ Phủ Thánh Cô cai quản miền Thoải Cung nên gọi là Cô Ba Thoải Cung. 

Các ngày lễ tiết Tiên Thánh hay còn gọi là ngày tiệc trong tín ngưỡng Tam Tứ Phủ là những ngày lễ rất quan trọng đối với các đồng nhân.

Có rất nhiều các bạn có căn số trước khi ra trình đồng mở phủ đều mong muốn tìm được người Thầy của mình. Các bạn yêu quý nhắn tin hỏi Huyền Tích về tuổi nào thì hợp để làm Thầy cho bản thân mình?

Không biết từ khi nào đã có sự phân biệt về cách gọi, cách xưng hô của các lính ghế bên Tứ Phủ.

Trường hợp do gia tiên có Bà Cô, Ông Mãnh linh thiêng có duyên được tu tập được chắp táp cửa Đình Thần Tứ Phủ, cửa Mẫu. Phần âm gia tiên mộ Đạo bén duyên hoặc gia tiên khát bóng vọng cầu muốn con c

Bản thân Huyền Tích đã phụng sự việc Thánh như thế nào? Nay xin kể lại một chút mà bản thân Huyền Tích đã trải qua.

Nếu coi tâm linh là một nghề thì Huyền Tích không phải lủi thủi bao nhiêu năm một mình đi cúng, các đệ tử nam trong bản hội và cả bên ngoài xin theo học Pháp. Nhưng không biết đến khi chết có tìm đ

Thánh Mẫu mà thương ai định chọn ai làm việc lớn trách nhiệm lớn lao, Mẫu sẽ rèn rũa tâm trí người đó vững vàng trước sóng gió.

Chúng ta vẫn nhầm lẫn bè là bạn, đến khi bị lợi dụng, bị hại mới nhận ra.

Có đệ tử hỏi rằng: Y vào sơn Môn khác là như nào hả Thầy? nay Huyền Tích xin chia sẻ đôi lời cho các lính ghế Tứ Phủ được tỏ.

Nhiều người nói sinh ra đã có số phận không ai có thể dịch chuyển được.

Nhiều Đồng nhân vẫn không biết đâu là Chốn Tổ của mình? Đa số nghĩ nơi mình mở phủ là chốn tổ, bản thân người Thầy mở phủ cho mình cũng không có chốn tổ để về, cũng không biết đâu là chốn tổ của mì

Lạy Mẫu! Tại sao chúng con phải xoay khăn? Thời buổi Đồng Tiền lên ngôi! "Thượng bất chính, hạ tắc loạn"; "Giáo bất nghiêm sư chi đọa, sinh bất dưỡng phụ chi lỗi".

教不嚴師之 墮

生不飬父之纇

Tổ có nói: "Thuận hành nghịch hành, tận thị đạo tràng vô vi phật sự". Tất cả các pháp đều là phương tiện.

Một số các trường hợp lính ghế Tứ Phủ khi gặp khó khăn thường than là sao con không sống ác với ai, có làm gì ác đâu mà các Ngài hành con khổ quá vậy? Chỉ những lời than trách vô tình như vậy cũng

Tu là để trả nghiệp! Nhiều người cứ hỏi thầy có xem bói không? Câu trả lời của Huyền Tích là không.

 

Cha chấm Lính Mẹ bắt Đồng cơ hành khốn đốn nếu bạn đúng con bốn phủ, bạn phải tìm Thầy đại tấu dẫn trình khai đàn mở Phủ. Khi đã là con bốn Phủ thì tu sao để yên căn yên mệnh?

Có bạn đồng đặt câu hỏi rằng: "Thầy con nhà có đại tang mà sau mấy ngày đã mở phủ cho con rồi có sao không ạ?

 

Thế Nào là Căn Hạnh Của Người Xuất Gia? Huyền Tích xin chia sẻ về căn của người xuất gia phải có một yếu tố đó là “Duyên".

Dưới đây là Văn Cô Bé Ngai Vàng, đã được tách sẵn giúp cho những ai muốn học Hát Văn Cô Bé Ngai Vàng sẽ dễ dàng hơn:

"Dâng văn     cô bé     ngai vàng

Quan lớn Đệ Nhị Thượng Ngàn hay còn gọi là Quan Lớn Đệ Nhị Giám Sát là người thông minh, chính trực, văn võ toàn tài.

Quan lớn Đệ Nhất Thượng Thiên tên đầy đủ là Đệ Nhất Thượng Thiên Hoàng Thái Tử Vương Quan hay còn gọi là Đệ Nhất Tôn Quan. Ông là vị quan đứng hàng đầu trong Ngũ Vị Tôn Quan.

Quan lớn Đệ Nhất Thượng Thiên hay còn gọi là Đệ Nhất Tôn Quan là vị quan lớn đứng đầu trong Ngũ Vị Tôn Quan.

Trong hệ thống Tứ Phủ, Cô Bơ Bông là vị thánh cô rất nổi tiếng và thường hay về ngự đồng để cứu độ cho các lính ghế củ

Hệ thống công đồng Trần Triều là ban thờ rất quan trọng trong tín ngưỡng Thờ Mẫu Tứ Phủ của người Việt.

"Ba năm thử lính" là thời gian rất vất vả đối với mỗi Tân Đồng. Đây là khoảng thời gian tân đồng phải trả nghiệp và trải qua rất nhiều thử thách: thử tâm, thử lính...

Trang nghiêm thanh tịnh bình đẳng không lãng phí xa hoa ấy là phúc của Đạo. Có câu :"Tùy tài biện lễ, giầu làm kép hẹp làm đơn".

Nhiều người tâm sự rất lo lắng, hỏi Huyền Tích cùng một câu hỏi là :

"Một năm phải hầu hai vấn, người thì bảo phải ba vấn thế này thế kia không biết đâu mà lần”

Pages